Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Lich su cay dan guitar


Tóm tắt lịch sử cây đàn guitar ( copy từ bản dịch của GXR trong box Dịch thuật)

Lịch sử sơ khởi về cây đàn guitar rất mơ hồ . Và bởi không bao giờ có giới hạn cho trí tưởng tượng cùng sự lãng mạn nên tồn tại cùng lúc rất nhiều giả thuyết khác nhau . Thậm chí còn có truyền thuyết về một chiếc mai rùa còn dính những sợi gân đã khô cứng được một vị thần Ai Cập tìm thấy trên bờ biển . Những ngón tay thần linh chạm vào những sợi gân rùa . Âm nhạc thần thánh tuôn trào trên nhạc cụ bộ dây đầu tiên ...

Nhạc cụ bộ dây cổ nhất được tìm thấy tại khu vực Alaja Huyuk ( thuộc bán đảo Anatolie ) có niên đại 1400 trước Công nguyên .

Một pho tượng đá niên đại 400 trước Công nguyên tìm thấy ở Athen ( Hy Lạp ) mô tả hình ảnh một người phụ nữ kiều diễm ôm trong tay một cây đàn . Điều đáng chú ý là tư thế pho tượng rất trùng khớp với tư thế các guitarist ngày nay .

Cây đàn guitar - tất nhiên vẫn trong hình dáng của các thế hệ đàn dây trước đó - di chuyển dần tới Tây Ban Nha , nơi nó tìm thấy quê hương đích thực . Vào khoảng thế kỷ thứ 12 xuất hiện những " Chitarras Latinas " đầu tiên .

Khoảng thế kỷ thứ 15 Vihuela là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây đàn guitar . Mặc dù chỉ còn rất ít tiêu bản đàn Vihuela được lưu giữ đến ngày nay nhưng những bản nhạc soạn cho đàn Vihuela đều có thể được chơi trên cây guitar . Độ hoàn thiện của những bản nhạc này cho thấy các nhạc công Vihuela thực sự là những nghệ sĩ lớn .

Những cây đàn guitar đầu tiên được làm tại Ý mang những đặc trưng cơ bản nhất cho một cây guitar với hộp đàn hình số 8 ( ngày nay hộp đàn có xu hướng ngắn hơn ) , 1 lỗ thoát âm duy nhất , 1 cần đàn và các khóa . Cây đàn guitar thời đó thường có 4 dây đôi ( dây kép như Măng - đô - lin ) và 1 dây đơn . Nghệ nhân chuyên làm vĩ cầm Stradivari cũng chế tạo những nhạc cụ như vậy .

Nửa cuối thế kỷ thứ 19 những cây đàn guitar hoàn hảo nhất đã ra đời dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de Torres ( 1817 - 1892 ; sinh trưởng tại San Sebastian de Almeria ) . Chỉ riêng với vẻ bề ngoài đơn giản mà vô cùng thanh thoát cây đàn của Torres đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tuyệt vời nhất . Torres mang lại cho cây guitar tỉ lệ cân xứng mà chúng ta đều biết . Phía bên trong thùng đàn , Torres thiết kế 1 hệ thống 7 thanh gỗ hình dẻ quạt thay cho 4 hoặc 5 thanh ngang truyền thống . Ông phân chia chúng theo một tỉ lệ chuẩn tới mức tất cả những thử nghiệm về sau này nhằm cải thiện tỉ lệ cũng như kiểu dáng cây guitar đều không thể vượt qua . Torres cũng là người tìm ra độ dài lý tưởng cho các dây đàn : 65 cm . Tất cả những phát kiến này đều gần như hoàn toàn dựa vào trực cảm trong quá trình mày mò tự học , tự làm .

Những cây đàn guitar của Torres được biết đến trước hết bởi chất lượng âm thanh tuyệt vời , mượt mà mà vẫn đầy sức mạnh , cùng với tiếng ngân rất êm và sâu . Nhiều thợ làm đàn hiện đại trong suốt một thời gian dài đã thử nghiệm để chế tạo những cây đàn lớn hơn . Họ mở rộng các tỉ lệ , tăng chiều dài dây đàn lên tới 68 cm ... với mục đích nâng cao cường độ âm thanh của tiếng đàn . Nhưng kết quả lại trái ngược với mong muốn : những cây đàn như vậy quả thật có tiếng lớn hơn , với điều kiện người nghe ngồi thật gần người biểu diễn . Còn trong một phòng hòa nhạc lớn thì độ ngân của chúng không đủ lực để âm thanh tới được với những thính giả ngồi trong các góc xa , vốn là điểm ưu việt trên cây đàn của Torres .

Nói đến những nghệ nhân làm đàn guitar cổ điển nghĩa là nói đến hai tên tuổi Manuel Ramirez ( 1869 - 1920 ) và Herman Hause ( 1882 - 1952 ; người Đức ) , được xem là hai người kế nghiệp lừng lẫy của Torres . Nhưng sau khi Torres mất , Jose - Luis Romanillos mới chính là người học trò cần mẫn và tận tâm nhất của ông . Romanillos viết sách về tiểu sử của Torres , nghiên cứu cặn kẽ lại toàn bộ trước tác của thầy mình . NGhệ nhân làm đàn nổi tiếng ( cũng tự học ) người Thụy Sĩ Werner Schär là một trong những học trò của Romanillos . Những cây đàn do Schär chế tác có thể xem là những cây đàn duy nhất thậm chí đạt tới độ hoàn hảo hơn cả những cây đàn của Torres trong cả vẻ đẹp thẩm mĩ lẫn chất lượng âm thanh .

Trong lịch sử âm nhạc , một trong những giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của cây đàn guitar ở vào thời kỳ vua Ludwig XIV . Mọi tầng lớp trong xã hội , từ các bậc vương giả ( bản thân nhà vua cũng là một nghệ sĩ vô cùng tài hoa ) , cho tới những cô thôn nữ đều say mê guitar . Tuy nhiên cũng chính sự phổ cập này đã mang lại " tai họa " . Những bậc mệnh phụ cung đình không chịu được ý nghĩ rằng họ đang thưởng thức chung một thứ âm nhạc , chơi chung một thứ nhạc cụ với những kẻ hầu người hạ . Vậy là từ những nguyên xã hội cây đàn 6 dây rơi vào sự thất sủng . Suốt một thời kì dài những giai điệu guitar lôi cuốn kì diệu hoàn toàn vắng bóng trong chốn cung đình .

Nhưng cây đàn guitar không biến mất . Những người nông dân hiền lành , những người du mục lang thang vẫn thủy chung với nó . Trong cộng đồng nghèo ấy người ta vẫn chơi nhạc và nhảy múa , vẫn uống rượu và yêu đương , vẫn hội hè đình đám , không ngừng nghỉ , với cây đàn guitar .

Với cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống bình dân , họa sĩ Cavaggio đã sáng lập ra một trường phái nghệ thuật pha trộn giữa tĩnh vật và phồn thực , với những bức tranh tiêu biểu mô tả hình ảnh những cô nàng hầu gái rực rỡ và những anh chàng nông phu vâm vạp đang vui sướng reo hò nhảy nhót thường là xung quanh một cái bàn bị lật nghiêng với trái cây chín mọng , với rượu chảy thành vòi và những tay guitarist đang chơi đàn như điên dại ...

Sau đó cây đàn guitar bắt đầu thời kì chiếm lại đỉnh cao . Những tên tuổi như Fernando Carulli ( 1770 - 1841 ) , Fernando Sor ( 1778 - 1839 ) , Mauro Giuliani ( 1781 - 1829 ) hay Matteo Carcassi ( 1792 - 1853 ) , với những trước tác đã trở nên kinh điển , đã đưa guitar trở lại góp mặt trong các salon quý tộc .

Nhưng tới cuối thế kỉ XIX , guitar lại một lần nữa nhường ngôi vị độc tôn trong âm nhạc cao cấp . Thế vào vị trí đó là cây đàn piano .

Như đã nhắc đến , Torres là một nghệ nhân " thượng thừa " trong lĩnh vực làm đàn guitar . Sử dụng một cây đàn của Torres , guitarist vĩ đại nhất mọi thời đại Fransisco Tarrega ( 1852 - 1909 ) đã phát triển kỹ thuật guitar hiện đại . Ông là nghệ sĩ chỉ chơi guitar và là nhà soạn nhạc chỉ sáng tác cho guitar . Những tác phẩm của ông tận dụng mọi đặc tính và khả năng của cây đàn cũng như " bắt " nghệ sĩ biểu diễn thể hiện tất cả tài năng của anh ta . Mặc dù những tác phẩm của Tarrega luôn mang tính mô phạm nhưng với độ biểu cảm , sự tinh tế và cùng tính lãng mạn chúng không còn là những bài tập kĩ thuật đơn thuần mà đã thưc sự trở thành những báu vật âm nhạc .

Tarrega làm việc không ngừng nghỉ để trả lại cho cây đàn guitar vị trí của nó trong giàn nhạc giao hưởng . Vì mục đích này , bên cạnh việc soạn các tác phẩm mới , ông còn chuyển soạn cho cây đàn guitar rất nhiều những tác phẩm của Chopin , Schumann , Bach ...

Những kỹ thuật của Tarrega được truyền lại tới ngày nay nhờ vào học trò của ông , Miguel Llobet ( 1878 - 1937 ) . Nhà soạn nhạc Brasil Heitor Villa - Lobos ( 1887- 1959 ) được xem là người kế tục và phát triển sự nghiệp âm nhạc guitar cổ điển của Tarrega .

Mặc cho những biến thiên của lòng yêu mến chốn cung đình , cây đàn guitar vẫn luôn chiếm một vị trí xứng đáng trong lòng quần chúng lao động . Tại Tây Ban Nha guitar trở thành nhạc cụ được tôn vinh duy nhất trong dòng nhạc Flamenco với thứ âm nhạc ẩn chứa nỗi lòng thương nhớ quê hương , nỗi luyến tiếc quá khứ của những người tộc Mô- rơ . Biết bao thế hệ nghệ sĩ Flamenco đã nói tiếp nhau giữ gìn và mở rộng dòng nhạc này . Nhưng họ kế nghiệp nhau chủ yếu bằng cách học truyền khẩu nên tên tuổi và âm nhạc của họ cũng chỉ được " truyền khẩu " trong dân gian . Chỉ có duy nhất Ramon Montoya ( 1880 - 1942 ) đã đưa được Flamenco tới các phòng hòa nhạc, ví dụ như các buổi biểu diễn Flamenco tại Salle Pleyel, nơi được biết đến như một thánh địa của chỉ các buổi biểu diễn nhạc cổ điển . Bí quyết thành công của Ramon Montoya nằm ở sự hòa hợp được chất nhạc Flamenco thuần khiết với kỹ thuật guitar cổ điển .

Tuổi thơ Andres Segovia ( 1893 - 1987 ) được ru trong tiếng đàn guitar. Khi lớn lên , Segovia tiếp tục con đường mà Tarrega đã bắt đầu , cùng với cây lục huyền cầm lần lượt chinh phục tất cả các phòng hòa nhạc . Cũng cần nhấn mạnh rằng vị sứ giả nổi tiếng của cây đàn guitar này đã thành công cũng chỉ với sự tự học .

Sau Segovia bắt đầu xuất hiện 1 loạt các tay guitarist trẻ mà guitarist người Ý Emanuele Segre là đại diện xuất sắc cho " thế hệ mới " - thế hệ những gutarist hiện đại . Song song với sự phát triển của dòng guitar cổ điển chính thống còn tồn tại một chi nhánh guitar được phổ biến trong giới bình dân và 1 lần nữa dẫn tới sự lan tỏa mạnh mẽ của guitar ở thập kỉ 70 . Cây guitar gắn với phong trào Hippy thời này một mặt khiến guitar cổ điển bị thờ ơ , mặt khác , dưới sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng điện khí hóa , lại đưa guitar trở thành nhạc cụ phổ thông nhất trong âm nhạc quần chúng . Một chi nhánh quan trọng trong đó là Jazz với guitarist huyền thoại Django Reinhard .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét